Tách bạch giữa tài sản chủ doanh nghiệp và tài sản doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân là một trong những loại hình phổ biến hiện nay ở nước ta nhưng đây là loại hình doanh nghiệp nhỏ vì quy mô tổ chức và số vốn của loại hình doanh nghiệp rất nhỏ. Tuy nhiên, xét về điều kiện và hoàn cảnh kinh tế và tính ưu việt dễ quản lý nên được ưa chuộng tại Việt Nam. Một số vấn đề cần chú trọng là mô hình tổ chức, tài sản của doanh nghiệp cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp trong quá trình tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Căn cứ theo quy định khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Doanh nghiệp có thể được thành lập bởi cá nhân, tổ chức hoặc góp vốn để thành lập nên. Vì thế, doanh nghiệp tư nhân sẽ được thành lập theo quy định pháp luật là tổ chức có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.
Căn cứ Điều 188 Luật Doanh nghiệp quy định:
“1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
4. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần”
Theo quy định nêu trên thì doanh nghiệp tư nhân sẽ do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp đó. Có nghĩa là tài sản của doanh nghiệp tư nhân cũng chính là tài sản của chủ doanh nghiệp đó chứ không có sự tách bạch giữa tài sản của doanh nghiệp và của chủ sở hữu doanh nghiệp như loại hình công ty công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... Mặc khác, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp tư phân chịu sự điều chỉnh của rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước như: Luật quản lý thuế, Bộ Luật dân sự… chính vì vậy, nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp cũng là vấn đề người thành lập doanh nghiệp cần phải hiểu rõ nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật.
Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Việc tăng hoặc giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp cũng quy định chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc để quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; trường hợp này, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Cũng theo quy định tại Điều 74 Bộ Luật dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Mặc dù doanh nghiệp tư nhân là tổ chức được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp nhưng lại không có tài sản độc lập và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp tư nhân thường đơn giản nên doanh nghiệp tư phân không phải là pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Như vậy, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức đơn giản, tài sản của doanh nghiệp tư nhân cũng chính là tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp đó và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.